Bàn về Trung Quốc
Tác giả : Henry Kissinger
Cuốn sách soi sáng các chính sách ngoại giao của Trung Quốc trong những thời kì quan trọng như lần va chạm đầu tiên của Trung Hoa với các cường quốc phương Tây, chiến tranh Triều Tiên, chuyến ghé thăm lịch sử của Richard Nixon đến Bắc Kinh…Bàn về Trung Quốc mang lại cho độc giả một góc nhìn lịch sử sâu sắc về quan hệ quốc tế của Trung Quốc, dựa trên kinh nghiệm của một trong những chính khách nổi bật nhất của thời đại chúng ta.
Ai nên đọc cuốn sách này?
Bất cứ ai quan tâm đến Trung Quốc và tương lai của thế giới trong thế kỉ 21
Bất cứ ai quan tâm quan điểm của 1 trong những chuyên gia số 1 về Trung Quốc
Bất cứ ai yêu thích chính trị, ngoại giao, lịch sử của Trung Quốc nói riêng, và thế giới nói chung
Tác giả cuốn sách này là ai?
Henry Kissinger là một nhà ngoại giao người Mỹ gốc Đức. Ông là bộ trưởng ngoại giao trong 4 năm và được trao giải Nobel hòa bình năm 1973. Ông đóng vai trò chủ chốt trong việc định hình chính sách đối ngoại của Mỹ thế kỉ 20 và đã viết hàng chục cuốn sách về chủ đề quan trọng này.
1: Khổng Tử, Tôn Tử và cờ vây
Tiến Sỹ Henry Kissinger, cựu Ngoại trưởng Mỹ, vốn là một nhân vật “có duyên nợ” với Việt Nam từ gần 40 năm nay. Tháng 5-2011 nhà ngoại giao nổi tiếng này cho ra mắt cuốn sách về nước láng giềng khổng lồ của Việt Nam: Bàn về Trung Quốc.
Ông đã dành nhiều trang để nhắc tới Việt Nam, với tư cách một láng giềng gần gũi nhưng không phải là không có con đường riêng độc lập với Trung Quốc.
On China của Henry Kissinger, về căn bản, không hẳn là một cuốn hồi ký chính trị của nhà ngoại giao bởi tác giả xưng “tôi” không nhiều và không thường xuyên gắn mình vào từng tình huống, sự kiện, câu chuyện kể trong sách. Tuy nhiên, On China cũng không thuần túy là sách lịch sử. Nhiều chương được mở đầu bằng những đoạn tác giả phân tích về chính trị, quan hệ quốc tế, trong đó ông đưa ra những quan điểm mà có lẽ nhiều người đọc Việt Nam sẽ thấy mới mẻ.
Trung Hoa với tư tưởng đại Hán
Trong chương I (về tính độc tôn của Trung Quốc), mô tả quan niệm của người Trung Hoa về quan hệ quốc tế, Kissinger viết:
“Trung Quốc có tới hơn 1.000 năm áp dụng một hệ thống quan lại được thiết kế hoàn hảo, các quan được tuyển từ những cuộc thi mang tính chất cạnh tranh; hệ thống này thâm nhập và điều chỉnh tất cả khía cạnh của đời sống kinh tế-xã hội. Do đó, cách hiểu của người Trung Quốc về trật tự thế giới rất khác biệt với phương Tây. Quan niệm phương Tây hiện đại về quan hệ quốc tế được hình thành từ thế kỷ 16-17, khi cấu trúc của xã hội Âu châu thời Trung cổ bị phá vỡ thành một nhóm các nhà nước với sức mạnh tương đương và nhà thờ Thiên chúa phân chia thành nhiều giáo phái khác nhau. Ngoại giao để cân bằng quyền lực các bên không phải là sự lựa chọn mà là điều tất yếu. Không nhà nước nào đủ mạnh để áp đặt ý chí của mình; không tôn giáo nào giữ được đủ quyền lực để có thể duy trì tính phổ biến. Khái niệm quyền tự quyết và bình đẳng về mặt pháp lý giữa các nhà nước trở thành cơ sở của công pháp quốc tế và ngoại giao.
Còn Trung Hoa, ngược lại, chưa bao giờ quan hệ với một nước nào trên cơ sở bình đẳng, vì lý do đơn giản là họ chưa bao giờ tiếp xúc với những xã hội có nền văn hóa hay có quy mô tương đồng với họ. Việc đế quốc Trung Hoa chiếm địa vị vượt trội so với các nước ở cùng mặt bằng địa lý được coi gần như luật trời vậy. Đối với các hoàng đế Trung Hoa, luật trời không nhất thiết hàm ý một mối quan hệ thù địch với các dân tộc láng giềng; tốt hơn hết là không nên như thế. Cũng giống như Mỹ, Trung Quốc tự cho là mình đóng một vai trò đặc biệt”.
Đó là cách Kissinger chỉ ra và giải thích sự tự tin thái quá trong tư duy của người Trung Quốc (mà trong nhiều trường hợp, tâm lý đó đã biến thành tư tưởng nước lớn, bá quyền). Ông cũng cho rằng về điểm này thì Trung Quốc và Mỹ có nét tương đồng.
Triết học Khổng Tử, binh pháp Tôn Tử
Henry Kissinger cũng tỏ ra là một nhà ngoại giao tài năng khi ông cho người đọc thấy mình đã tìm hiểu thấu đáo đến thế nào về nền văn hóa có bề dày 4.000 năm của Trung Quốc. Ông nghiên cứu về triết học Khổng Tử và tóm tắt nó lại trong một phần của chương I. Qua diễn giải của Kissinger thì do Khổng Phu Tử sống vào thời loạn nên triết gia này luôn hướng đến một xã hội cân bằng, hòa hợp từng tồn tại trước đó và nhiệm vụ tinh thần của mỗi con người là phải tái lập trật tự cũ đã bị mất đi kia.
Không phải ngẫu nhiên mà Kissinger đề cập tới Khổng Tử ngay từ chương đầu cuốn sách. Đó là vì ông cho rằng Khổng giáo có ảnh hưởng rất lớn tới một nhân vật đặc biệt của Trung Quốc thế kỷ 20 và cũng là nhân vật nổi bật trong On China : Mao Trạch Đông. Điều kỳ lạ ở đây, theo Kissinger nhận xét là tuy Mao Trạch Đông chống Khổng Tử một cách nhiệt thành và công khai nhưng đường lối điều hành đất nước của Mao lại rõ ràng là một phiên bản của triết học Khổng Tử. Mao tuyên bố đoạn tuyệt với quá khứ nhưng lại dựa rất nhiều vào những thể chế truyền thống của Trung Hoa, gồm cả cách điều hành như của triều đình phong kiến lẫn hệ thống cán bộ, quan chức được Mao sử dụng theo cách chẳng khác gì hoàng đế ngày xưa sử dụng quan lại: khinh ghét, thích thì dùng không thích thì cách chức đi, sau đó lại cất nhắc trở lại, cứ thường xuyên như thế.
Cờ vây và lợi thế tương đối
Kissinger quan tâm đến binh pháp Tôn Tử và viết khá tỉ mỉ về cờ vây (wei qi), trò chơi trí tuệ lâu đời nhất của người Trung Quốc. Ông dụng công so sánh: Nếu ở bộ môn cờ tướng và cờ vua người chơi phải giành chiến thắng tuyệt đối thì ở cờ vây, người chơi tìm kiếm lợi thế tương đối. Cờ tướng, cờ vua nhằm vào tiêu diệt từng quân của đối phương trong những thế đối đầu trực tiếp, còn trong cờ vây, người chơi di chuyển vào chỗ trống và dần dần làm tiêu hao sức mạnh chiến lược của đối thủ. Nghệ thuật cờ vây được áp dụng vào quân sự: Theo Kissinger, tư duy chiến lược của người Trung Quốc hướng đến chiến thắng thông qua lợi thế về tâm lý hơn là qua đối đầu trực tiếp.
Chẳng phải ngẫu nhiên mà Kissinger nghiên cứu và giải thích tương đối tỉ mỉ về Tôn Tử và cờ vây. Ấy là bởi vì theo ông, Mao Trạch Đông cũng chính là một “môn đồ” trung thành của Tôn Tử. Thậm chí, ông viết: “Những bí kíp của Tôn Tử được thể hiện sống động trong cuộc nội chiến ở Trung Quốc thế kỷ 20 dưới tay người học trò của Tôn Tử là Mao Trạch Đông và trong chiến tranh Việt Nam, với việc Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp áp dụng các nguyên lý tấn công gián tiếp, chiến tranh tâm lý đối với Pháp và kế đó là Mỹ”.
Một trong các gương mặt nổi bật của On China là Mao Trạch Đông, người mà Kissinger – trên cương vị ngoại trưởng Mỹ – từng có nhiều dịp tiếp xúc. Trong cuốn sách “nửa hồi ký” của mình, Kissinger cũng đưa ra (dù không nhiều) nhận xét và cả phán đoán cá nhân về vị lãnh đạo đặc biệt này của Trung Quốc – một trong 20 chính trị gia có ảnh hưởng nhất thế kỷ 20 theo bình chọn của tạp chí Time năm 2000.
2: Ý chí Mao Trạch Đông
On China của Henry Kissinger dành tới xấp xỉ chín chương trong tổng số 18 chương để viết về Mao Trạch Đông và những biến cố, sự kiện ở Trung Quốc thế kỷ 20 liên quan đến vị lãnh tụ của cách mạng Trung Quốc.
Như thế đủ thấy đối với Kissinger, Mao Trạch Đông để lại một ấn tượng sâu sắc tới mức nào.
Ông mở đầu chương sách đầu tiên về Mao như sau: “Ở vị trí người đứng đầu của triều đại mới, triều đại mà vào năm 1949 đã tràn từ nông thôn ra tiếp quản thành phố, sừng sững một người khổng lồ: Mao Trạch Đông. Độc đoán, ảnh hưởng bao trùm, tàn nhẫn và xa cách, vừa là nhà thơ vừa là chiến sĩ, vừa là người đưa ra chủ trương vừa là nhà phê bình, ông thống nhất toàn Trung Quốc và đưa cả đất nước này vào một hành trình gần như hủy diệt xã hội dân sự”. Điều kỳ lạ là cho tới cuối hành trình, Trung Quốc đã trở thành một trong những siêu cường của thế giới. Vậy Mao Trạch Đông có vai trò “xây và phá” tới mức nào trong sự nghiệp của Trung Hoa thế kỷ 20? Với sự khôn ngoan và thận trọng cố hữu của một nhà ngoại giao, Kissinger không đưa ra câu trả lời trực tiếp, song người đọc có thể tự rút ra một nhận định của riêng mình.
Thần tượng Tần Thủy Hoàng
Kissinger bình luận: “Các nhà cách mạng, về bản chất, đều là những người có cá tính mạnh mẽ và luôn theo đuổi chỉ một mục đích. Gần như tất cả họ đều bắt đầu từ một vị trí yếu thế, đối lập với môi trường chính trị đương thời và đều thành công nhờ sức thu hút đối với quần chúng và vào khả năng huy động lòng thù hận, khả năng tận dụng sự sa sút về tâm lý của đối phương”. Theo những tiêu chí này thì Mao Trạch Đông là một nhà cách mạng đúng nghĩa.
Cựu ngoại trưởng Mỹ cũng đưa ra một nhận định có tính khái quát hóa khác: “Hầu hết các cuộc cách mạng đều được thực hiện nhân danh một sự nghiệp cụ thể. Một khi thành công thì cách mạng sẽ được thể chế hóa thành một trật tự mới, một hệ thống mới. Cuộc cách mạng của Mao không có điểm dừng chân cuối cùng; mục tiêu tối cao của nó mà Mao tuyên bố – “đại đồng” – là một ảo ảnh mơ hồ, giống như một sự tán dương tinh thần hơn là một cuộc tái thiết thật sự về chính trị. Các cán bộ của Đảng Cộng sản TQ giống như giới tăng lữ, chỉ có điều giới tăng lữ thì sứ mệnh của họ là thập tự chinh chứ không phải là hoàn thành một kế hoạch định sẵn”.
Kissinger ví cán bộ thời Mao với tăng lữ Âu châu thời Trung cổ là có lý do: Điểm chung lớn giữa họ là sự khắc khổ, nhu cầu vật chất được duy trì ở mức tối thiểu, như thể họ hành hạ thể xác để giữ gìn phần hồn.
Một cách thẳng thắn, Kissinger viết rằng tất cả những người thân cận của Mao trong cách mạng cuối cùng đều bị thanh trừng. chẳng phải ngẫu nhiên mà vị hoàng đế Trung Hoa được Mao Trạch Đông ngưỡng mộ nhất chính là Tần Thủy Hoàng. Có lần Mao nhận xét, để lãnh đạo Trung Quốc phải kết hợp được phương pháp của Mác và Tần Thủy Hoàng.
400 năm dồn nén trong 40 năm
Năm 2005, nhà văn nổi tiếng của nền văn học đương đại Trung Quốc – Dư Hoa – gây chấn động văn đàn với cuốn tiểu thuyết hai tập Huynh Đệ, tập I viết về cách mạng văn hóa ở Trung Quốc. Dư Hoa bảo đó là “một thời đại, tương đương thời trung cổ ở châu Âu”. Điều đặc biệt của cuốn tiểu thuyết là nó cô đọng lại một lịch sử dài dằng dặc: “Muốn trải qua hai thời đại một trời một vực như thế, một người phương Tây phải sống đến 400 năm, một người Trung Quốc thì chỉ cần 40 năm đã trải qua rồi. Những biến động của 400 năm được dồn nén trong 40 năm”.
Nếu tìm hiểu về Mao Trạch Đông qua cuốn On China của Henry Kissinger thì sẽ thấy lịch sử Trung Quốc thế kỷ 20 quả thật buộc phải khốc liệt như thế, với một người cầm lái như Mao. Không thể khác được.
Kissinger viết: “Nước Trung Hoa của Mao là một đất nước chìm trong khủng hoảng vĩnh viễn; ngay từ những ngày đầu cầm quyền, Mao đã tung ra hết đợt sóng đấu tranh này đến đợt sóng đấu tranh khác. Người Trung Hoa không được phép nghỉ ngơi trên các thành quả của mình. Số phận của họ do Mao thiết kế. Ý chí của Mao thể hiện ở sự quyết liệt đoạn tuyệt với quá khứ để thanh lọc bằng được xã hội”.
Kissinger tiến hành so sánh để cho thấy sự khác biệt đến đối lập giữa Mao Trạch Đông và Khổng Tử. Theo ông, Mao đã tấn công thẳng thừng vào tư tưởng chính trị truyền thống của Trung Quốc: Trong khi Khổng Phu Tử đề cao “đại đồng” tức là một sự hòa hợp trên tổng thể, thì Mao cổ súy sự dịch chuyển, cổ vũ xung đột giữa các mặt đối lập. Triết học Khổng Tử nhấn mạnh cân bằng, hòa hợp, trung dung, nếu tiến hành cải cách thì phải dần dần và hướng tới phục hồi lại các giá trị cũ. Còn Mao Trạch Đông luôn muốn thay đổi một cách quyết liệt, ngay lập tức, chấm dứt hoàn toàn với quá khứ.
Thế nhưng con mắt phân tích của Kissinger lại nhận thấy rằng cuối cùng đằng sau sự đối lập đó, đường lối lãnh đạo của Mao vẫn là của một con người chịu ảnh hưởng nặng nề của Khổng giáo: Vẫn thể chế ấy, cách dùng người ấy, hệ thống “có trên có dưới” ấy… Ông không viết ra nhưng độc giả có thể cảm nhận, Trung Hoa thời Mao Trạch Đông vẫn có màu sắc của một triều đại phong kiến.
Những cuộc gặp gỡ cuối cùng
Hai cuộc gặp cuối cùng giữa Kissinger và Mao diễn ra vào tháng 10 và 12-1975. Trong On China, Kissinger cũng hé lộ đôi chút về nội dung đối thoại trong các cuộc tiếp xúc này, càng cho thấy rõ hơn cá tính mạnh mẽ, quyết liệt của vị lãnh tụ tối cao của Trung Quốc.
Khi ấy Mao đã rất yếu, phải có hai y tá kèm bên mới có thể đứng dậy và cần một phiên dịch “viết” vì bản thân ông nói không còn rõ tiếng nữa.
Mao:Giờ tôi 82 rồi. (Chỉ tay vào Ngoại trưởng Kissinger). Ông bao nhiêu tuổi? Chắc 50?
Kissinger:51.
Mao: (Chỉ tay vào Phó Thủ tướng Đặng Tiểu Bình) Anh này 71. (Xua tay) Và sau khi chúng tôi – tôi, anh này (Đặng), Chu Ân Lai và Diệp Kiếm Anh – chết hết thì các ông vẫn sống đúng không? Thấy không? Chúng tôi già cả rồi chẳng làm được gì. (…) Ông biết đấy, tôi bây giờ là để triển lãm cho khách đến xem thôi.
Nói vậy nhưng Mao Trạch Đông vẫn mạnh mẽ và dữ dội như vậy, nhất là khi cuộc đối thoại kết thúc, ông đột ngột thách thức như để khẳng định tinh thần kiên định cách mạng:
Mao:Tôi muốn mọi người chửi vào mặt tôi (cao giọng, đập tay vào thành ghế). Ông phải nói, rằng Mao Chủ tịch là một ông lãnh đạo quan liêu thì tôi mới muốn gặp ông. Khi ấy tôi sẽ vội vàng gặp ông ngay. Nếu ông không chửi thì tôi chẳng gặp ông đâu, tôi đi ngủ cho yên.
Kissinger:Như vậy khó cho chúng tôi quá, nhất là lại gọi ông là lãnh đạo quan liêu.
Mao:Tôi khẳng định thế đấy (đập mạnh vào thành ghế). Tôi sẽ chỉ thích thú khi tất cả những người ngoại quốc đều đập bàn đập ghế và chửi tôi.
Mao chuyển sang giọng hăm dọa.
Mao:LHQ có thông qua một nghị quyết, do Mỹ tài trợ, nói rằng Trung Quốc tham gia xâm lược Triều Tiên.
Kissinger:Chuyện đó là từ 25 năm trước rồi.
Mao:Phải. Như thế tức là không liên quan trực tiếp đến ông. Đấy là vào thời Truman.
Kissinger:Vâng, đã lâu rồi và chúng tôi đã thay đổi quan niệm.
Mao: (Chạm tay vào trán) Nhưng nghị quyết vẫn chưa bị bãi bỏ. Tôi vẫn còn phải đội cái mũ “xâm lược”. Tôi vẫn coi đấy là vinh dự lớn nhất mà chẳng vinh dự nào to lớn hơn được. Tốt, tốt lắm.
Kissinger:Vậy chúng ta có cần thay đổi nghị quyết của LHQ không?
Mao:Thôi, không làm thế. Chúng tôi chưa bao giờ đề nghị như thế… Chúng tôi không có cách nào phủ nhận. Quả thật chúng tôi đã đưa quân vào Đài Loan và cả bán đảo Triều Tiên. Ông có thể giúp tôi ra một tuyên bố công khai (về việc này) không?
Kissinger:Tôi sẽ giúp ông công bố. Có thể tôi đã không nhận được bản tuyên bố nào chính xác cho đến nay.
Ngày 9-9-1976, Mao Trạch Đông qua đời – theo như Kissinger viết thì phải tới lúc đó vị chủ tịch mới đầu hàng bệnh tật. Ông để lại một nước Trung Hoa thống nhất, với nhiều di sản của quá khứ bị tàn phá tan hoang trong Cách mạng Văn hóa. Nhưng cho đến giờ vai trò của Mao Trạch Đông đối với Trung Quốc hiện đại vẫn là vấn đề để lịch sử phán xét, luận công định tội. Với Kissinger, vai trò ấy có phần giống như của Tần Thủy Hoàng: Con người vĩ đại sáng lập ra cả một triều đại, thống nhất đất nước, đồng thời cũng kéo dân tộc vào những hành trình khủng khiếp, nơi lịch sử 400 năm bị ép lại chỉ còn 40 năm…