Sức Mạnh Của Thói Quen – Charles Duhigg

Lần cập nhật gần nhất November 7th, 2021 – 06:02 pm

Thói quen là một trong những nhân tố làm nên cuộc đời mỗi người, có những điều đơn giản diễn ra hằng ngày xung quanh bản thân mà ta không để ý đến. Tất cả những điều đó đều có thể ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống mỗi người. Chính vì vậy, “Sức mạnh của thói quen” giúp ta nhìn nhận lại bản thân, những thói quen mà ta cần thay đổi để trở nên tốt hơn, ít ra là chiến thắng chính bản thân mình.

Review Sức mạnh của thói quen

Đúng như lời giới thiệu trên trang bìa, đây quả là một trong những “cuốn sách hay nhất về thay đổi hành vi của con người và tổ chức”.

Xuyên suốt cuốn sách, một mô hình cơ bản được đưa ra: gợi ý – hành động – phần thưởng, và để thay đổi một thói quen, chúng ta phải tự nhận thức được những “gợi ý” và “phần thưởng” thực sự là gì. Thành công thay đổi được thói quen phụ thuộc rất nhiều vào sự chính xác của việc xác định từng cấu thành của vòng lặp thói quen. Đa số các phần thưởng của “cảm giác thoả mãn”, “thần kinh hoá học và sinh lý” tạo nên 40% các hoạt động dựa theo thói quen thường ngày vô thức mà chúng ta “không điều khiển được dù lầm tưởng đó là chọn lựa”.

Cuốn sách đưa ra những thí nghiệm và giải thích vì sao một người đàn ông bị chứng mất trí nhớ, không thể nhớ nổi mình nói gì mỗi 10’ hay vẽ lại bản đồ ngôi nhà mình sống trong hơn 30 năm lại có thể đi thẳng tới phòng bếp lấy lọ quả hạnh nhân mỗi khi đói; tại sao chúng ta luôn ý thức được đồ ăn nhanh của McDonalds là có hại cho sức khoẻ nhưng không cưỡng lại nổi những gợi ý quen thuộc về cách bày trí, những gì nhân viên nói với khách hàng và tác động tới thần kinh của khoai tây được chế biến để tan ra ngay trong miệng lúc chạm lưỡi kèm theo vị muối và mỡ.

Dù thoạt đầu tưởng cuốn sách thuộc thể loại self-help với công thức đơn giản: vấn đề – ví dụ – giải pháp nhưng thực tế cuốn sách làm được nhiều hơn thế bằng những dẫn chứng vô cùng phong phú. Tác giả rất thành công khi kết nối mô hình lý thuyết cơ bản vào việc lý giải các công ty như Target lại sử dụng data để dự đoán lúc nào người mua hàng dễ bị dụ dỗ để chi tiêu phóng khoáng nhất; thu thập thông tin để dự đoán khi nào một em bé mới sẽ được ra đời cũng như cách “chăm sóc” em bé đó từ khi lọt lòng tới lúc trưởng thành, bằng cách gửi các phiếu giảm giá của “các mặt hàng thích hợp vào các thời điểm thích hợp”. Các tập đoàn như P&G đang thực sự kinh doanh gì? – Kem đánh răng có tác dụng chống mảng bám hay chỉ là hương vị bạc hà kích thích đầu lưỡi kèm theo cảm giác sạch sẽ sau khi đánh răng. Vì sao trước khi một bài hát được phát hành, máy tính đã có thể nói chính xác độ thành công của bài hát qua phân tích cấu trúc và cách các agency khiến một bài hát “không thể bị chuyển kênh khi đang phát trên radio” như thế nào.

Có lẽ chính tác giả đã sử dụng những thủ thuật về thói quen khi viết cuốn sách này nên khi đọc người đọc có cảm giác rất lôi cuốn. Dù bạn là một người mong muốn xây dựng những thói quen mới, thay đổi những thói quen không tích cực; một người làm quảng cáo; một nhân viên; một nhà quản trị hay chỉ là một người đọc sách, cuốn sách thực sự rất thú vị.

– William Nguyen

Tóm tắt Sức mạnh của thói quen

Cuốn sách “The Power of Habit” viết về sức mạnh của thói quen, cách hình thành thói quen, cách thay đổi thói quen, cách tạo ra những thói quen tích cực của cá nhân, tổ chức và cộng đồng. Tác giả đã chứng minh rằng thói quen đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong sự thành công của các cá nhân và tổ chức – đúng như nội dung của câu châm ngôn nổi tiếng “gieo thói quen, gặt tính cách; gieo tính cách, gặt số phận”.

Do khuôn khổ có hạn, người viết chỉ tóm tắt phần quan trọng nhất của cuốn sách đó là nội dung về thói quen của cá nhân và công ty.

Thói quen

Nhiều hành động chúng ta làm mỗi ngày từ những việc đơn giản như tắm rửa, đánh răng, ăn sáng, buộc dây giày, kiểm tra email, đi bộ, ăn tối, xem ti-vi đến những việc phức tạp như thói quen tiết kiệm, cách chúng ta tổ chức công việc trong ngày… có vẻ như là kết quả của việc suy nghĩ thấu đáo nhưng thật ra đó là thói quen. Một nghiên cứu khoa học tại Đại học Duke năm 2006 đã kết luận rằng hơn 40% hành vi hàng ngày của con người xuất phát từ thói quen.

Thói quen là một hoạt động hay chuỗi hoạt động được con người thực hiện khá thường xuyên mà không cần tập trung suy nghĩ nhiều. Ví dụ như khi chúng ta lái xe. Những động tác lái xe có vẻ như phức tạp cần chúng ta phải suy nghĩ trước khi thực hiện. Thế nhưng vì chúng đã thành thói quen, chúng ta có thể thực hiện chúng một cách dễ dàng mà không cần phải tập trung suy nghĩ. Theo các nhà khoa học, thói quen được hình thành là vì bộ não luôn tìm cách giảm sự làm việc của trí óc. Não bộ luôn cố gắng chuyển hầu hết các hoạt động hàng ngày thành thói quen vì khi chúng ta hoạt động theo thói quen, não bộ sẽ được nghỉ ngơi thường xuyên hơn. Nhờ vào những thói quen hoạt động hàng ngày mà những bệnh nhân bị mất ký ức do bệnh tật hoặc chấn thương vẫn giữ được khả năng thực hiện những hoạt động cơ bản mà họ từng làm hàng ngày theo thói quen. Bệnh nhân Eugene bị viêm não do vi-rút không nhớ tuổi của mình, không nhận ra cháu của mình, và dĩ nhiên không thể vẽ được sơ đồ nhà của mình, nhưng vẫn có thể tìm đến nhà bếp khi muốn ăn.

Sự hình thành thói quen

Các nhà nghiên cứu tại MIT với công nghệ vi mô đã nghiên cứu thói quen bằng cách quan sát hoạt động não bộ của chú chuột trong khi tìm kiếm miếng sô cô la đặt trong một mê cung. Họ ngăn cách chú chuột với mê cung qua một vách ngăn. Sau một tiếng click lớn, vách ngăn mở ra và chú chuột đi vào mê cung để tìm đường đến miếng sô cô la. Theo sự dẫn dụ của mùi sô cô la, chú chuột đi lên đi xuống, ngửi và cào cấu vách tường… Thí nghiệm cho thấy não bộ của chú chuột hoạt động tích cực để xử lý thông tin: mùi, âm thành, hình ảnh… trên con đường tìm đến miếng sô cô la. Thí nghiệm này được lặp đi lặp lại nhiều lần, và chú chuột đã bắt đầu quen thuộc với hướng đi tìm miếng sô cô la, cho đến khi chú chuột không cần phải dùng đến não bộ để suy nghĩ đường đi. Lúc đó, những hành động: đi thẳng, rẽ trái. và ăn sô cô la đã được lưu trữ trong hạch nền và được thực hiện một cách tự động.

Quá trình não bộ chuyển hó một chuỗi hoạt động thành hành vi tự động gọi là “chunking” và là nguồn gốc của thói quen. Thói quen lái xe ô-tô của chúng ta cũng được hoàn thành tương tự như thí nghiệm trên. Ban đầu não bộ chúng ta phải làm việc cật lực để thực hiện hàng loạt các động tác: mở gara, mở khóa cửa xe, điều chỉnh ghế ngồi, tra chìa khóa vào ổ, khởi động xe, điều chỉnh kính, kiểm tra chướng ngại vật, đặt chân lên thắng xe, quan sát khoảng cách, phán đoán tình hình để điều khiển tay lái, chân ga và chân thắng. Sau một thời gian chúng ta có thể làm tất cả những việc trên mà không cần phải suy nghĩ nghiều. Những hành động phức tạp của việc lái xe đã biến thành thói quen – hành vi tự động. Nhờ vậy khi lái xe, chúng ta có thể suy nghĩ về việc khác hay nói chuyện với người khác.

Vòng tròn 3 bước lặp lại của thói quen

Vòng tròn 3 bước lặp lại của thói quen được phát triển và hình thành trong hạch nền của não bộ. Bước đầu tiên của vòng tròn này là “kích hoạt” có tác dụng như một nút khởi động để đưa não bộ vào trạng thái tự động và lựa chọn thói quen để sử dụng. Đối với chú chuột trong thí nghiệm là tiếng Click, còn đối với người lái xe là hành động cắm chìa khóa. Bước kế tiếp là sự diễn ra của “chuỗi hoạt động” – có thể thuộc về thể chất, tinh thần hay cảm xúc. Chuột bắt đầu đi, quan sát và ngửi mùi; người lái xe bắt đầu những động tác lái xe. Bước cuối cùng là “phần thưởng” cho những hành động vừa rồi. Đối với chuột là miếng sô cô la, đối với người lái xe là sự di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Não bộ đánh giá phần thưởng này và sẽ quyết định vòng lặp đó có cần ghi nhớ để lặp lại và trở thành một thói quen hay không. Theo thời gian, vòng lặp “kích hoạt, hành động, kết quả” trở nên tự động hóa. Khi “kích hoạt” và “phần thưởng” gắn kết với nhau, bộ não của chúng ta sẽ phát triển một cảm giác kỳ vọng mạnh mẽ, dẫn đến sự hình thành thói quen.

Vai trò của “phần thưởng” trong việc duy trì một thói quen

Những nghiêu cứu cho thấy “kích hoạt” và “phần thưởng” tạo ra thói quen, nhưng không thể làm cho một thói quen mới trở thành bền vững. Chỉ khi nào não bộ mong muốn những “phần thưởng” đó thì thói quen mới được kéo dài. Các nhà khoa học tại Đại học New Mexico nghiên cứu 266 người để tìm hiểu thói quen tập thể dục đều đặn của họ. 92% nói rằng tập thể dục giúp họ cảm thấy vui vẻ hơn nhờ các hoóc-môn giảm đau và những chất dẫn truyền thần kinh khác do thể dục mang lại. 67% nói rằng thể dục mang lại cho họ cảm giác thành công, chiến thắng bản thân. Chỉ khi nào não bộ của họ mong đợi phần thưởng – hoóc-môn giảm đau hay cảm giác thành công – thì việc buộc dây giày mỗi sáng “kích hoạt” sẽ trở thành tự động. Như vậy bên cạnh việc tạo ra một chuỗi hành vi tự động, “kích hoạt” còn tạo ra sự thèm muốn để có “phần thưởng”.

Ứng dụng thói quen trong Marketing

Vào những năm đầu thế kỷ 20, đánh răng không phải là thói quen của người Mỹ. Nhưng thiên tài quảng cáo Claude Hopkins đã tạo ra thói quen đánh răng cho người Mỹ và nhờ đó bán ra lượng khổng lồ kem đánh răng Pepsodent. Ông đã quảng cáo một thông điệp đơn giản rõ ràng: đánh răng bằng Pepsodent sẽ giúp bỏ đi những mảng bám răng và tạo cho người dùng một hàm răng trắng. Quan trọng hơn, ông đã cho vào trong kem Pepsodent chất làm mát gồm acid citric, tinh dầu bạc hà, và vài hóa chất khác. Khi khách hàng đánh răng, chúng tạo cảm giác mát lạnh “bạc hà” trên lưỡi và nướu răng. Khách hàng thích và chờ đợi cảm giác “phần thưởng” này. Và họ đánh đồng cảm giác mát lạnh “bạc hà” này với sự sạch sẽ của hàm răng – thế’ là việc đánh răng hàng ngày đã dần trở thành thói quen bền vững.
Trong nỗ lực marketing sản phẩm xịt phòng Febreze, các chuyên viên marketing P&G phát hiện rằng khách hàng mong muốn một cái gì đó vui tươi – một sự ăn mừng nho nhỏ – sau khi họ dùng Febreze để xịt phòng và đẩy bay các mùi khó chịu. Họ đã đưa những mùi thơm vào Febreze làm cho nó không chỉ có khả năng trung hòa các mùi – khử mùi – mà còn có khả năng tạo ra mùi thơm đặc trưng. Và họ thay đổi thông điệp quảng cáo từ “đẩy bay các mùi khó chịu” thành “làm sạch mùi”. Mùi thơm này đã quyến rũ và làm “nghiện” các bà nội trợ. Febreze đã trở thành sản phẩm bán chạy của P&G.

Nguyên tắc vàng để thay đổi thói quen

Thói quen hầu như không thể bị xóa bỏ, mà chỉ có thể được thay thế bằng một thói quen khác. Nguyên tắc vàng để thay đổi thói quen là giữ nguyên phần kích hoạt và phần thưởng, và thay hành vi cũ bằng một hành vi mới.
Bóng bầu dục là trận đấu của sự nghi binh và phản nghi binh, chơi lừa và đánh lạc hướng, do đó những huấn luyện viên thường xây dựng nhiều chiến thuật thi đấu. Họ huấn luyện cho các vận động viên quan sát dấu hiệu chuyển động của đối thủ và suy nghĩ chiến thuật hợp lý và thường là bất ngờ – đối với đối thủ – để áp dụng. Huấn luyện viên Dungy lại dùng phương pháp ngược lại. Ông không hứng thú với việc dạy cho các cầu thủ nhiều phương án thi đấu và những cách đánh lạc hướng đối thủ. Thay vào đó, ông chỉ bắt đội tập thuần thục vài mô hình chiến thuật. Cầu thủ vẫn được “kích hoạt” bằng cách quan sát và phán đoán dấu hiệu chuyển động của đối thủ. Nhưng thay vì phân tích và suy nghĩ việc áp dụng chiến thuật nào để áp dụng, họ sử dụng ngay những hành động mà họ đã được huấn luyện và đã thực hành nhiều lần thành thói quen. Các đội đối thủ dù có đoán biết chiến thuật thi đấu đơn giản này cũng không thể ngăn cản được vì các cầu thủ của ông đã thực hiện các hành động theo thói quen này quá nhanh, quá thuần thục. Bằng phương cách huấn luyện thay đổi thói quen quan sát đối thủ rồi suy nghĩ phân tích thành thói quen quan sát và hành động ngay, huấn luyện viên Dungy đã đem lại những kết quả thi đấu thành công cho đội Buc, và vinh quang cho đội Indianapolis Colts.

Alcoholics Anonymous (AA) là tổ chức giúp những người nghiện rượu bỏ rượu. AA tập trung vào các vòng lặp thói quen và tìm cách thay đổi các hành động của những người nghiện rượu khi họ bắt đầu nhận những “kích hoạt” của thói quen uống rượu. Thay vì rượu, AA cho người cai nghiện uống belladonna – một loại thuốc gây ảo giác. Biết người nghiện uống rượu khi muốn quên đi một điều gì đó, hay cảm thấy bớt lo lắng, buồn rầu, AA đã thành lập một hệ thống bạn bè gặp gỡ và đồng hành với người nghiện rượu. Người nghiện rượu có thể nhận được sự thanh thản nhờ tâm sự với người hỗ trợ hay tham dự các buổi họp nhóm, hơn là cùng uống rượu với bạn nhậu. Ngoài ra, AA còn hướng những người muốn thay đổi thói quen phải có một niềm tin mãnh liệt rằng họ có thể thay đổi. Đối với một số người, điều này có thể là yếu tố tâm linh, và đối với một số người khác là niềm tin mãnh liệt mà họ cùng với nhóm của họ phát triển và nuôi dưỡng. Cách tiếp cận này của AA đã và được áp dụng qua các điều trị khác như nghiện ma túy, cờ bạc, thuốc lá, thực phẩm.

Những thói quen chủ chốt có thể thay đổi thói quen khác

Thói quen chủ chốt là những thói quen mà khi tổ chức hay cá nhân thực hiện sẽ tạo ra một ảnh hưởng giúp tổ chức, cá nhân thay đổi các thói quen khác theo hướng tích cực.

Các nhà nghiên cứu cho thấy những người tập thể dục thể thao đều đặn ăn uống tốt hơn và làm việc hiệu quả hơn. Họ ít hút thuốc lá, kiên nhẫn hơn với người khác. Họ cũng dùng thẻ tín dụng ít hơn và ít bị căng thẳng. Con cái của các gia đình có thói quen ăn tối cùng nhau thường có kỹ năng làm việc nhà tốt hơn, học cao hơn, tự tin hơn và kiểm soát cảm xúc tốt hơn. Những người có thói quen dọn giường buổi sáng có năng suất lao động tốt hơn, cảm giác sung túc hơn. Tập thể dục đều đặn, ăn cơm cùng gia đình, dọn giường mỗi sáng… là những thói quen chủ chốt. Chúng tạo ra chuỗi phản ứng giúp cho các thói quen tích cực khác chiếm ưu thế.

Câu chuyện về thói quen chủ chốt của nhà máy thép Alcoa. Ông O’Neill, nguyên là viên chức chính phủ thành công và một nhà quản lý lão luyện, được ban quản trị nhà máy thép Alcoa mời làm Tổng giám đốc. Khác với các Tổng giám đốc khác, ông O’Neill không quá tập trung vào các chỉ số kinh doanh thông thường. Thay vì thay đổi nhiều thói quen hoạt động của tổ chức Alcoa, O’Neill xác định hành vi về an toàn lao động là thói quen chủ chốt. O’Neill tuyên bố mục tiêu hàng đầu của ông là thực hiện chính sách an toàn lao động, biến Alcoa thành nơi không có tai nạn lao động. Mục tiêu lạ lùng này lúc mới đưa ra đã gây sốc cho các nhà đầu tư và ban quản lý. Kế hoạch của O’Neill được xây dựng theo vòng lập của thói quen. “Kích hoạt”: tai nạn của công nhân; “Hành động”: khi có tai nạn xảy ra, lãnh đạo của phòng trực tiếp phải báo cáo với O’Neill trong vòng 24 tiếng để đảm bảo tai nạn ấy không bao giờ xảy ra nữa; “Phần thưởng”: chỉ người nào tuân theo hệ thống báo cáo tai nạn này mới được thăng tiến. Để đáp ứng được thói quen này, toàn bộ hệ thống báo cáo của nhà máy đã được sắp xếp lại nhằm giúp thông tin từ dưới – công nhân – có thể lên trên – các cấp lãnh đạo và cuối cùng là O’Neill một cách nhanh nhất. Công nhân làm việc theo đúng quy trình kỹ thuật chuẩn, và cũng được trao thêm quyền để làm những việc trong năng lực và vị trí của họ. Nguyên vật liệu thô cũng được tiết kiệm để giảm bớt tai nạn. Những ý kiến phản hồi có tính sáng tạo của công nhân, nhân viên cấp thấp này cũng được cấp trên nghe thấy. Sau một thời gian áp dụng thói quen an toàn lao động, tỷ lệ tai nạn của Alcoa chỉ còn 1/20 tỷ lệ trung bình của nước Mỹ, và quan trọng hơn là chi phí đã được giảm xuống, chất lượng và năng suất tăng vọt, lợi nhuận công ty gấp 5 lần. Ông O’Neill thắng lợi vì đã chọn đúng thói quen chủ chốt và tập trung thực hiện thay đổi thói quen này một cách thành công, kéo theo sự thay đổi tích cực của những thói quen khác của tập thể công nhân nhà máy Alcoa.

Starbucks và những thói quen của nhân viên

Starbucks – chuỗi cà phê hàng đầu nước Mỹ và thế’ giới – là một trong những công ty đi đầu về việc huấn luyện những thói quen tốt cho nhân viên. Một trong những thói quen chủ chốt mà Starbucks huấn luyện cho nhân viên là “Sức mạnh ý chí/Will Power” – thói quen quan trọng bậc nhất quyết định sự thành công của một cá nhân. Nhân viên Starbucks được huấn luyện có sức mạnh ý chí, tinh thần kỷ luật, luôn đi làm đúng giờ, luôn nhiệt tình trong suốt giờ làm việc. Họ được huấn luyện kiềm chế cảm xúc để luôn có thể phục vụ khách hàng với sự niềm nở và mong muốn đem tới cho khách hàng ly cà phê hoàn hảo. Starbucks còn dạy cho nhân viên thói quen phục vụ khách hàng theo hệ thống mang tên một loại café: LATTE – Lắng nghe (Listen), Xác nhận (Acknowledge), Hành động (Take action), Cảm ơn (Thank), Giải thích (Explain). Starbucks còn dạy cho nhân viên cách xác định, phân loại khách hàng và thực hiện công việc phục vụ hợp lý cho khách hàng đó. Mọi hành động được thực tập nhuần nhuyễn cho đến khi nhân viên có thể hành động một cách tự động theo thói quen. Những thói quen tốt này của nhân viên là một trong những nguyên nhân góp phần làm nên thành công của Starbucks.

– Lâm Minh Chánh